Nguồn gốc và ý nghĩa sâu xa của Tiết Thanh Minh

Nguồn gốc và ý nghĩa sâu xa của Tiết Thanh Minh

Bạn vẫn thường quen với câu Thanh minh trong tiết tháng - Ba Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh...

Nguồn gốc Tiết Thanh Minh
Tiết Thanh minh là một khái niệm trong công tác lập lịch của các nước phương Đông chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa cổ đại. Nó là một trong số hai mươi tư tiết khí của các lịch Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên...
Vì lịch của người Trung Quốc, cũng như Việt Nam cổ đại, bị nhiều người lầm tưởng là âm lịch thuần túy nên rất nhiều người cho rằng nó được tính theo chu kỳ của Mặt Trăng quay xung quanh Trái Đất. Trên thực tế lịch Trung Quốc cổ đại là một loại âm dương lịch nên nếu giải thích theo thuật ngữ của lịch hiện đại ngày nay (lịch Gregory) thì nó được tính theo vị trí của Trái Đất trong chu kỳ chuyển động trên quỹ đạo của mình xung quanh Mặt Trời. Nếu tính điểm xuân phân là gốc (kinh độ Mặt Trời bằng 0°) thì điểm diễn ra hay bắt đầu tiết Thanh minh là kinh độ Mặt Trời bằng 15°. Do vậy, tiết Thanh minh thực tế được tính theo cách tính của dương lịch hiện đại và nó thông thường bắt đầu vào ngày 4 hoặc 5 tháng 4 dương lịch tùy theo từng năm.
Theo quy ước, tiết thanh minh là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 4 hay 5 tháng 4 khi kết thúc tiết xuân phân và kết thúc vào khoảng ngày 20 hay 21 tháng 4 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết cốc vũ bắt đầu.
nguon-goc-y-nghia-sau-xa-tiet-thanh-minh
Tiết Thanh Minh năm 2016
đối chiếu ngày tiết với ngày dương lịch thì ngày tiết tính theo hệ mặt trời có chênh một ngày vì theo dương lịch cứ bốn năm thì nhuận một ngày (tháng hai có 29 ngày, thay vì 28 ngày). Tiết Lập xuân bắt đầu vào ngày bốn hoặc năm tháng Hai dương lịch; còn tiết Đông chí bắt đầu vào ngày 22 hoặc 23 tháng Mười Hai dương lịch. Theo cách tính như trên thì Thanh minh có thể bắt đầu vào ngày 5 hoặc 6 tháng 4 dương lịch. Cứ theo đó mà tính ra ngày Thanh minh. Theo âm lịch truyền thống Trung Quốc thì ngày này thường rơi vào ngày đầu tháng ba âm lịch. Nếu rơi đúng vào ngày mùng ba tháng Ba âm lịch thì gọi đó là ngày “Thanh minh đích thực”.
Thời tiết chính trong tiết Thanh Minh
Xét về mặt thời tiết, khí hậu thì từ thời điểm này trở đi ở miền Bắc Việt Nam, do ảnh hưởng của luồng gió mùa đông-bắc đã yếu, gió đông-nam đã mạnh dần lên và mưa phùn đã gần như chấm dứt hẳn. Điều này làm mất đi hiện tượng nồm (hiện tượng làm hơi nước ngưng tụ lại trên bề mặt các đồ vật tiếp giáp gần với mặt đất cũng như nhà cửa) và tiết trời trở nên trong sáng, dễ chịu hơn do nhiệt độ đã lên cao và độ ẩm giảm xuống. Tuy nhiên, gần như vẫn chưa có mưa rào để bắt đầu cho mùa mưa. Mưa rào thường diễn ra gần tiết Cốc vũ.
Tết Thanh minh
Tết Thanh Minh diễn ra vào ngày tiết Thanh minh. Tại một số quốc gia trên thế giới như: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Ma Cao thì tết này là một ngày quốc lễ. Còn ở các khu vực khác ở Đông Á thì không không như vậy. Ở Việt Nam khi nhắc tới Tết Thanh Minh bao giờ người ta cũng nghĩ đến lễ Tảo Mộ và Hội Đạp Thanh
Tảo mộ
Nhân ngày Thanh minh, người dân các nước có nền văn hóa tương đồng và chịu ảnh hưởng của nền văn minh Trung Hoa đều có tục đi tảo mộ gia tiên và làm lễ cúng gia tiên sau cuộc tảo mộ. Công việc chính của tảo mộ là sửa sang các ngôi mộ của tổ tiên cho được sạch sẽ. Nhân ngày Thanh minh, người ta mang theo xẻng, cuốc để đắp lại nấm mồ cho đầy đặn, rẫy hết cỏ dại và những cây hoang mọc trùm lên mộ cũng như tránh không để cho các loài động vật hoang dã như rắn, chuột đào hang, làm tổ mà theo suy nghĩ của họ là có thể phạm tới linh hồn người đã khuất. Sau đó, người tảo mộ thắp vài nén hương, đốt vàng mã hoặc đặt thêm bó hoa cho linh hồn người đã khuất. Trong ngày Thanh minh, khu nghĩa địa trở nên đông đúc và nhộn nhịp. Các cụ già thì lo khấn vái tổ tiên nơi phần mộ. Trẻ em cũng được theo cha mẹ hay ông bà đi tảo mộ, trước là để biết dần những ngôi mộ của gia tiên, sau là để tập cho chúng sự kính trọng tổ tiên qua tục viếng mộ. Những người quanh năm đi làm ăn xa cũng thường trở về vào dịp này (có thể sớm hơn một, hai ngày vì nhiều lý do khác nhau) để tảo mộ gia tiên và sum họp với gia đình. Bên cạnh những ngôi mộ được trông nom, chăm sóc cẩn thận, còn có những ngôi mộ vô chủ, không người thăm viếng. Những người đi viếng mộ thường cũng cắm cho các ngôi mộ này một nén hương.
Hội đạp thanh
Trước đây, nam nữ thanh niên cũng nhân dịp này để du xuân nên mới có tên gọi hội đạp thanh (tức giẫm lên cỏ). Ngày nay, ở Việt Nam lễ hội này có lẽ không còn và ít được phổ biến, nhưng ở một số nơi như Trung Quốc thì lễ hội này vẫn còn được duy trì.
 Theo Lichvansu.wap.vn
Ngôi làng thích được sống với người đã chết

Ngôi làng thích được sống với người đã chết

Tộc người Toraja tin rằng, con người không thực sự ra đi cho tới khi người ta giết trâu trong lễ tang của họ để làm phương tiện đi lại thế giới bên kia

Cho đến khi lễ tang diễn ra, thi thể của người chết vẫn được để trong nhà trong nhiều tuần, nhiều tháng, thậm chí nhiều năm liền và được chăm sóc giống như người sống.
Với phương pháp ướp xác formalin (gồm dụng dịch formaldehyde và nước) của người Toraja, thi thể của người chết sẽ không bị thối rữa mà dần dần khô lại.
Elisabeth Rante, một người Toraja cho biết, chồng cô, anh Petrus Sampe vừa mất cách đây gần 1 tháng.
Sau khi Sampe mất, gia đình cô vẫn để thi thể của anh trên chiếc giường đôi bằng gỗ, với chiếc chăn đỏ được kéo lên đến cằm.
Chị em gái bên cạnh xác của Syahrini Tania Tiranda, bé gái 3 tuổi được phủ khăn voan mới mất 1 ngày
Hàng ngày, Rante và các con đều nói chuyện với anh, mang đồ ăn thức uống cho anh 4 lần mỗi ngày, gồm bữa sáng, bữa trưa, bữa tối và bữa trà trưa.
'Chúng con làm như vậy vì chúng con rất yêu và tôn trọng ông', Yokke, con trai cả của Rante nói.
'Trước đây, chúng tôi thường ăn cơm cùng nhau. Giờ anh ấy vẫn đang ở nhà nên chúng tôi cần phải cho anh ấy ăn', Rante chia sẻ.
Người Toraja tin rằng, con người không thực sự ra đi khi họ chết và mối quan hệ sâu nặng giữa người với người còn vượt trên cả cái chết.
Họ coi cái chết không phải là một điều gì đó cực kỳ đau khổ, mà chỉ là chuyển sang một loại quan hệ khác.
Nhiều ngày sau, Rante mới làm lễ nhập quan cho Sampe thông qua một nghi thức Công giáo và một bữa tối, gồm thịt bò, rau và cơm, cho hơn 100 người.
Phong tục cổ xưa của tộc Toraja cho rằng không được để người chết ở một mình, nên dù đã nhập quan nhưng thi thể của Sampe vẫn được đặt ở trong nhà cho đến khi tổ lễ tang chính thức.
Trong thời gian đó, người thân gọi anh Sampe là 'makula' - người bị bệnh.
'Chúng con tin rằng dù bị bệnh nhưng linh hồn ông vẫn ở trong ngôi nhà', Yokke nói.
Một số người khác vẫn duy trì mối quan hệ với người đã mất thông qua nghi lễ ma'nene' - lễ tang thứ hai được tổ chức vài năm một lần vào tháng 8.
Theo nghi lễ, các gia đình mang thi thể của những người đã khuất ra khỏi quan tài, lau chùi và thay quần áo cho thi thể và hầm mộ của họ.
Đối với người Toraja, lễ tang sẽ được trì hoãn đến khi mọi người thân có thể trở về tụ họp.
Vì vậy, lễ tang lớn nhất có thể kéo dài cả một tuần. Đặc biệt, ông Daniel Rantetasak,  một người dân làng cho biết: 'Bạn có thể cáo lỗi không đến dự một đám cưới nhưng bạn phải tới dự một lễ tang'.
Một lễ vật không thể thiếu trong lễ tang là trâu, con vật được xem là phương tiện đi lại của người đã mất ở thế giới bên kia.
Lễ tang lớn hay nhỏ phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của những con trâu bị giết trong đó và tối thiểu phải có 24 con bị giết. Đôi khi, số lượng trâu bị giết có thể hơn 100 con.
Những con trâu này là quà tặng của người tới tham dự lễ tang. Kích thước của mỗi con trâu phụ thuộc vào thứ bậc tôn ti; nói cách khác, người bề trên sẽ phải hiến tặng con trâu to hơn.
Khi lễ tang kết thúc, gia đình chịu tang sẽ nhận được một quyển sổ ghi chép về người tặng trâu, với mong muốn rằng khi một thành viên của gia đình họ qua đời, họ sẽ được đáp quà.
Nguồn gốc
Không ai biết chính xác những tục tệ đó của tộc người Toraja có từ khi nào. Chữ viết của người Toraja bắt đầu xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 nên phần lớn các truyền thống cổ xưa đều được truyền miệng.
Ông Petrus Kambuno, người được cho là biết rõ nguồn gốc của những tục tệ này cho biết: 'Chính ở đây, Chúa Trời đã tạo dựng lên người đàn ông ở trên thiên đường và người phụ nữ ở dưới đất.
Chúa Trời tạo cây tre và cây chuối ở dưới đất, và cây trầu không và cây chanh ở trên trời. Ngài lệnh cho chúng tôi dùng những món quà này để xoa dịu nỗi đau của loài người và giúp họ cảm thấy vui vẻ mỗi khi họ buồn vì một người nào đó qua đời'.
'Bố tôi ở đây và tôi cũng ở đây nên ông ấy không hề ra đi. Mẹ tôi ở đây và tôi có con gái nên bà ấy cũng không hề ra đi.
Những đứa con gái của tôi là người thay thế cho mẹ tôi. Còn tôi thay thế cho cha tôi',ông Kambuno nói, tay chỉ vào hầm mộ gia đình.

Theo Lichvansu.wap.vn 
Tết bánh trôi, bánh chay - Tết Hàn Thực ngày 3 tháng 3 âm lịch

Tết bánh trôi, bánh chay - Tết Hàn Thực ngày 3 tháng 3 âm lịch

Theo phong tục cổ truyền, Tết Hàn Thực diễn ra vào ngày mùng 3 tháng 3 âm lịch hằng năm.


Người Việt Nam thường gọi ngày lễ đặc biệt này với cái tên thật dân giã là Tết bánh trôi, bánh chay. Theo âm Hán – Việt, “hàn” là lạnh, “thực” là ăn, vậy Tết Hàn Thực là tết ăn đồ nguội, lạnh. Tết này có xuất xứ từ bên Trung Quốc, làm giỗ ông Giới Tử Thôi, một hiền sĩ có công phò Tần Văn Công, bị chết cháy ở núi Điền Sơn. Cũng như ngày mùng năm tháng năm tết Đoan Dương cũng xuất xứ từ bên Trung Quốc làm giỗ ông Khuất Nguyên bị chết trôi ở sông Mịch La. Ngày nay người Trung Quốc đã bỏ lễ đó. Ở Việt Nam cũng theo tục ấy và ăn Tết Hàn Thực ngày mồng 3 tháng 3. Tuy nhiên, người ta chỉ làm bánh trôi hay bánh chay để thế cho đồ lạnh, nhưng chỉ cúng gia tiên.
Trong Tết Hàn Thực ở Việt Nam, nhà nhà làm bánh trôi, bánh chay để lễ Phật, cúng gia tiên, thậm chí nhiều nơi cúng thần hoàng. Thay vì tên gọi chính thức, 3/3 âm lịch thường được người Việt gọi dân giã là Tết bánh trôi – bánh chay. Ngày Tết này hiện vẫn duy trì phổ biến ở miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là các tỉnh xung quanh Hà Nội.
Ngoài ra, chiếc bánh trôi làm từ bột gạo nếp thơm ngon còn được dâng cúng trong lễ Hai Bà Trưng ngày 6/3 tại làng Hát Môn (Phúc Thọ - Hà Tây), ngày giỗ tổ Hùng Vương 10/3 và hội Phủ Giầy tháng 3 lễ Mẫu.
Do đó, Tết Hàn Thực của Việt Nam mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc và có những nét khác biệt cơ bản với ngày lễ này tại Trung Quốc. Nhiều sự tích cũng cho rằng, nguồn gốc của bánh trôi, bánh chay có từ thời Hùng Vương và tục làm hai thứ bánh này để nhắc nhớ về sự tích “bọc trăm trứng” của Âu Cơ.
Tết Hàn Thực, khấn thế nào cho đúng?
Hằng năm, cứ tới 3/3 âm lịch, nhà nhà lại chuẩn bị mâm lễ để cúng Tết Hàn Thực. Lễ cúng gồm: Hương, hoa, trầu cau và 5 (hoặc 3 bát) bánh trôi, 5 (hoặc 3 bát) bánh chay dâng lên bàn thờ.
Tết hàn thực, bánh trôi bánh chay, ngày 3 tháng 3 âm lịch
Tết Hàn thực hay còn gọi là tết bánh trôi bánh chay diễn ra vào ngày 3 tháng 3 âm lịch

Theo sách Văn khấn nôm truyền thống của NXB Thanh Hóa, khi cúng tổ tiên trong ngày Tết Hàn Thực (3/3 âm lịch), chúng ta phải khấn thần ngoại trước, thần nội sau theo nghi thức dưới đây:
Văn khấn tết hàn thực ngày 3 tháng 3
Na mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Kính lạy: - Hoàng thiên hậu Thổ chư vị Tôn thần.
- Ngài Bản cảnh Thành hoàng, ngài Bản xứ Thổ địa, ngài Bản gia Táo quân cùng chư vị Tôn thần.
- Tổ tiên, Hiển khảo, HIển tỷ, chư vị Hương linh (nếu bố, mẹ còn sống thì thay bằng Tổ khảo, Tổ tỷ).
Hôm nay là ngày…
Gặp tiết Hàn Thực, tín chủ con cảm nghĩ thâm ân trời đất, chư vị tôn thần, nhớ đức cù lao tiên tổ, mỗi niệm không quên. Do đó chúng con sắm sanh lễ vật, sửa sang hương đăng, trần thiết trà quả dâng lên trước án.
Chúng con kính mời:
Ngài Bản cảnh Thành hoàng Chư vị Đại Vương.
Ngài Bản xứ thần linh Thổ địa.
Ngài Bản gia Táo quân, Ngũ phương, Long mạch, Tài thần.
Cúi xin giáng lâm trước án, chứng giám lòng thành, thụ hưởng lễ vật.
Chúng con kính mời các cụ Tổ khảo, Tổ tỷ, chư vị Hương linh gia tiên nội ngoại trong họ, cúi xin thương xót con cháu giáng về linh sàng, chứng giáng tâm thành thụ hưởng lễ vật.
Tín chủ con lại kính mời các vị vong linh, tiền chủ, hậu chủ ở trong nhà này, đất này, đồng lâm án tiền, đồng lai hâm hưởng, độ cho chúng con thân cung khang thái, bản mệnh bình an. Bốn mùa không hạn ách nào xâm, tám tiết hưởng vinh quang thịnh vượng.
Giãi tấm lòng thành, cúi xin chứng giám. 

Cẩn cáo
 Theo Lichvansu.wap.vn 
Mâm cỗ cúng Tết Hàn Thực thế nào cho đúng hương vị

Mâm cỗ cúng Tết Hàn Thực thế nào cho đúng hương vị

Ngày Tết Hàn Thực diễn ra vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch hằng năm. Người Việt Nam thường gọi ngày lễ đặc biệt này là Tết bánh trôi, bánh chay.

Trong Tết Hàn Thực, nhà nhà làm bánh trôi, bánh chay để lễ Phật, cúng gia tiên, thậm chí nhiều nơi cúng thần hoàng. Thay vì tên gọi chính thức, vào 3/3 âm lịch thường được người Việt gọi dân giã là Tết bánh trôi – bánh chay.
Tết Hàn Thực của Việt Nam mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc và có những nét khác biệt cơ bản với ngày lễ này tại Trung Quốc.
Phong tục làm bánh trôi, bánh chay trong tết Hàn Thực
Bánh trôi và bánh chay trong ngày Tết Hàn Thực thường được cho rằng có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhưng cũng nhiều sự tích cho rằng, bánh trôi, bánh chay có từ thời Hùng Vương. Tục làm bánh trôi, bánh chay để nhắc lại sự tích “bọc trăm trứng” của bà Âu Cơ.
Tết Hàn Thực
Bánh trôi ngày Tết Hàn Thực
Bánh trôi làm bằng bột nếp nhào nặn với nước, có nhân bằng đường phên. Gạo làm bánh trôi, bánh chay phải kén được nếp cái hoa vàng. Cứ chín phần nếp cho một phần tẻ hoặc non hai phần tẻ. Đường làm nhân bánh trôi ngon nhất là đường phên Dương Liễu và Cát Quế, những miếng đường vuông thành, sắc cạnh, đỏ thắm, rắn đanh và giòn, hương thơm mát.
Bánh nặn xong, được thả vào nồi nước sôi. Bánh chìm xuống rồi nổi lên, “ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh” thì vớt ra và ngâm trong nước lã đun sôi để nguội cho săn trở lại rồi lại vớt ra bày vào đĩa. Đĩa bánh trôi được rắc thêm mấy hạt vừng trắng rang thơm.
Bánh chay cũng làm bằng bột nếp nhào nặn với nước và cũng có nhân, nhưng nhân bằng đậu xanh nấu chín. Đỗ để làm nhân bánh cũng phải là giống đỗ tiêu, hạt nhỏ, thơm, được hấp chín tới, giã mịn, trộn với đường kính trắng. Bánh chay được đựng trong bát, chan thêm một chút chè đường quấy với bột đao hay bột sắn dây ướp hoa bưởi.
Hai thứ bánh tuy cùng làm bằng bột gạo nếp, nhưng mỗi thứ có hương vị đặc biệt riêng. 
Lễ vật và cúng khấn Tết Hàn Thực thế nào cho đúng
Lễ vật cúng ngày Tết Hàn Thực: Hằng năm, vào 3/3 âm lịch, theo cha ông hướng dẫn Tết Hàn thực gồm: Hương, hoa, trầu cau và 5 (hoặc 3) bát bánh trôi, 3 (hoặc 5 bát) bánh chay đặt gọn gàng nghiêm chỉnh lên bàn thờ tổ tiên.
Theo sách Văn khấn nôm truyền thống của NXB Thanh Hóa, khi cúng tổ tiên trong ngày Tết Hàn Thực (3/3 âm lịch), chúng ta phải khấn thần ngoại trước, thần nội sau.
Tết Hàn Thực bắt nguồn từ đâu và từ bao giờ?

Tết Hàn Thực bắt nguồn từ đâu và từ bao giờ?

Ngày nay, cứ mỗi dịp tết Hàn thực về, người dân mọi vùng quê đều làm bánh trôi, bánh chay.


Còn ở thị thành, ngày xuân đi du ngoạn, khách cũng được hưởng hương vị bánh trôi, bánh chay từ các quán hàng. Giữa thủ đô Hà Nội, trong những phố cổ du khách có dịp được tận hưởng hương vị bánh trôi bánh chay mà tưởng đến chuyện xưa nhiều điều thú vị.
Vậy tết Hàn Thực là ngày Tết gì và có nguồn gốc từ đâu?
Tết Hàn Thực là một ngày tết vào ngày mồng 3 tháng 3 âm lịch. "Hàn Thực" nghĩa là "thức ăn lạnh".
Hàng năm vào ngày này, nhiều gia đình cho xay bột, đồ đỗ xanh, làm bánh trôi, bánh chay, nấu xôi chè lễ Phật và cúng gia tiên, có lẽ đó cũng là một cách tưởng niệm người thân trong những ngày tháng cuối xuân, chứ ít người biết đến hai chữ "Hàn Thực" gắn với một điển tích ở Trung Quốc, được biết tới nhiều qua tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc.
Theo nghĩa chữ Hán "Hàn" là lạnh, "thực " là ăn; " Tết Hàn thực" là tết ăn đồ lạnh. Phong tục cổ truyền này có nguồn gốc từ Trung Quốc theo một câu chuyện ly kỳ truyền tụng nhiều đời. 
Tết hàn thực được bắt nguồn từ Trung Quốc. Chuyện kể rằng, đời Xuân Thu (770-221 trước công nguyên), vua Tấn Văn Công, nước Tấn, gặp loạn phải bỏ nước lưu vong, nay trú nước Tề, mai trú nước Sở.
Bấy giờ có một hiền sĩ tên là Giới Tử Thôi theo vua giúp đỡ mưu kế. Một hôm, trên đường lánh nạn, lương thực cạn, Giới Tử Thôi phải lén cắt một miếng thịt đùi mình nấu lên dâng vua. Vua ăn xong hỏi ra mới biết, đem lòng cảm kích vô cùng.
Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công trong mười chín năm trời, cùng nhau trải nếm bao nhiêu gian truân nguy hiểm. Về sau, Tấn Văn Công giành lại được ngôi báu trở về làm vua nước Tấn, phong thưởng rất hậu cho những người có công, nhưng lại quên mất công lao của Giới Tử Thôi.
Giới Tử Thôi cũng không oán giận gì, nghĩ mình làm được việc gì, cũng là cái nghĩa vụ của mình, chứ không có công lao gì đáng nói. Vì vậy, ông về nhà đưa mẹ vào núi Điền Sơn ở ẩn.
Tấn Văn Công về sau nhớ ra, cho người đi tìm. Giới Tử Thôi không chịu rời Điền Sơn ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng, ý muốn thúc ép Giới Tử Thôi phải ra, nhưng ông nhất định không chịu tuân mệnh, rốt cục cả hai mẹ con ông đều chết cháy.
Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh trong dân gian phải kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm (khoảng từ mồng 3/3 đến mồng 5/3 âm lịch hàng năm). Từ đó ngày mùng 3/3 âm lịch hằng năm được coi là ngày tết Hàn thực, nhằm tưởng nhớ đến công ơn dưỡng dục của những người đã khuất.
Ở Việt Nam cũng theo tục ấy và ăn Tết Hàn Thực ngày mồng 3 tháng 3. Tuy nhiên, người ta chỉ làm bánh trôi hay bánh chay để thế cho đồ lạnh, nhưng chỉ cúng gia tiên, và có ít liên hệ đến Giới Tử Thôi và những kiêng kỵ khác.
Tết Hàn thực của người Việt mang ý nghĩa dân tộc sâu sắc

Tet Han Thuc bat nguon tu dau
Tết Hàn Thực với bánh trôi, bánh chay.
Ngày ấy các gia đình làm bánh trôi bánh chay cúng ông bà, tổ tiên và không kiêng đốt lửa. Cũng trong dịp này nhiều nơi làm bánh trôi bánh chay cúng thần hoàng.
Làng Hát Môn (PhúcThọ - Hà Tây) có lệ dâng bánh trôi lễ Hai Bà Trưng ngày 6 tháng 3, theo một truyền thuyết linh dị: Khi Hai bà thua trận từ Cấm khê chạy về Hát Môn là nơi phất cờ khởi nghĩa, Hai Bà bị thương ở cổ còn ăn được bánh trôi của Bà hàng mời rồi theo lời chỉ dẫn của Bà hàng (Bà hàng chính là Tiên hiện đón Hai Bà về Trời) để gieo mình xuống dòng sông Hát tuẫn tiết.
Hoặc hơn nữa ngày giỗ Tổ Hùng Vương ngày 10 tháng 3 hàng năm lễ hội cũng dâng cúng bánh trôi. Trong hội Phủ Giầy tháng 3 lễ Mẫu cũng thấy cúng bánh trôi.
Như thế rõ ràng Tết Hàn thực của ta mang màu sắc dân tộc riêng, trường tồn trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Theo Lichvansu.wap.vn